Sự nghiệp Phạm_Duy

Tôi là một người hát rong, sung sướng được làm người hát rong của thế kỷ.

Phạm Duy[36]

Có lẽ Phạm Duy là một tài tử thứ nhất hát những bài âm nhạc cải cách với một giọng hoàn toàn Việt Nam.

Nguyễn Văn Cổn

Một người nhạc sĩ có đầy nội lực hút hồn người khi ôm đàn say sưa hát những bài ca với chất giọng truyền cảm của một ca sĩ. Chính Duy đã làm được điều lạ thường đó.

Trần Văn Khê

Ca sĩ

Phạm Duy bắt đầu sự nghiệp âm nhạc với vai trò ca sĩ hát Tân nhạc trong gánh hát Cải lương Đức Huy - Charlot Miều. Gánh hát này đưa ông đi nhiều miền trên đất nước, giúp ông mở mang tầm mắt, ngoài ra khiến ông trở thành một nhân tố quan trọng trong việc phổ biến tân nhạc đến các vùng. Với giọng hát điêu luyện, đậm chất Việt của mình, ông đã đưa tên tuổi các nhạc sĩ như Đặng Thế Phong, Văn Cao đi khắp đất nước Việt Nam. Trong bài báo Tài Tử Phạm Duy để giới thiệu ca sĩ Phạm Duy, đăng trên tờ Revue Radio Indochine số 47, ra ngày Tết dương lịch năm 1944, Nguyễn Văn Cổn đã khắc họa:

"... Người thiếu niên này với gương mặt gầy ốm, một cặp mắt hiền từ và mơ màng sau cặp kính trắng, với cách cử chỉ khoan thai và nhã nhặn, đó là Phạm Duy(...) Có lẽ trong tiếng hát của Phạm Duy, chúng ta thấy một cái gì hơi xa xăm, buồn tủi, phải chăng đời của nghệ sĩ như đầy những sự nhớ nhung, thương tiếc, đợi chờ, mà tiếng hát Phạm Duy là tiếng lòng thổn thức (...) Mỗi lần Phạm Duy lên ca hát tại Đài Vô Tuyến là mỗi lần các thính giả xa gần đều lặng yên để thụ hưởng những sự dịu dàng trong trẻo, như thanh điệu êm ái (...) Bài Buồn tàn thu mà Phạm Duy hát lên có lẽ ai cũng nhận thấy sự cảm động của một tâm hồn mong mỏi người xa xôi (...) đưa cái bài Buồn tàn thu tới những tâm hồn mong mỏi (...)... Nhưng nói về nghệ thuật, thì có lẽ Phạm Duy là một tài tử thứ nhất hát những bài âm nhạc cải cách với một giọng hoàn toàn Việt Nam, có nhiều tài tử cứ tưởng lầm rằng họ ca hát những âm nhạc mới, tức là phải có một giọng Âu Mỹ, thật là sai lầm (...) Phạm Duy lại còn là một nghệ sĩ rất có lương tâm nhà nghề trước khi hát, trước khi biểu diễn, Phạm Duy rất chăm chú tập dượt những bài hát (...)"[37]

Với giai đoạn này, nhạc sĩ Văn Cao gọi Phạm Duy là "kẻ du ca đã gieo nhạc buồn của tôi khắp chốn". Ông từng hát riêng cho vua Bảo Đại nghe trong một chuyến lưu diễn ở Phan Rang. Khi đã theo kháng chiến, với cây đàn guitar, Phạm Duy tiếp tục đem giọng hát của mình phục vụ anh em chiến sĩ, mà theo Tạ Tỵ, tiếng hát Phạm Duy lúc này "mang một âm hưởng khác, một nội dung khác, ở đó, Duy không còn là kẻ đứng ngoài hát cho người khác nghe, mà nó chính là tiếng thét oai hùng của một thế hệ thanh niên đã ý thức được vai trò của mình trong lịch sử"[38].

Thời gian khi đã vào nghề sáng tác, Phạm Duy cũng duy trì công việc ca hát của mình, một cách không đều đặn. Tiếng hát của ông từng được phát trên các đài truyền thanh, truyền hình lớn trên Nam Việt cũng như thế giới. Ông đi hát rong cùng James Durst, Pete Seeger trong các chương trình giao lưu văn hóa Việt Mỹ, hay các chương trình nhạc phản chiến, phong trào du ca. Bên cạnh đó, Phạm Duy còn tự thâu âm những băng nhạc Tục ca, Tâm ca, Vỉa hè ca, Ngục ca và trong giai đoạn đầu lưu vong ở Hải ngoại, là hát rong trong nhóm nhạc Gia đình Phạm Duy, cùng với Thái Hằng, Thái Hiền.

Sáng tác

Bài chi tiết: Nhạc Phạm Duy

Tuy là ca sĩ có được nhiều thành công đặc biệt, nhưng sự nghiệp chính và quan trọng nhất của Phạm Duy là sáng tác, bắt đầu từ ca khúc Cô hái mơ, nếu không tính các ca khúc nghịch ngợm, truyền miệng, hay các ca khúc đặt lời cho nhạc ngoại quốc từ thuở thiếu niên.

Thời kỳ tiền chiến và Chiến tranh Đông Dương

Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời, người ơi!...
— Câu mở đầu của bài Tình ca, ca khúc của Phạm Duy viết trong giai đoạn trước 1954.
Chính Phạm Duy đã mở ra không chỉ cho riêng tôi mà cho các nhạc sĩ đàn em khác, con đường đưa dân ca vào ngôn ngữ âm nhạc mới. Ông ấy là người đầu tiên đã chuyển tải dân ca Việt Nam vào nhạc mới một cách nhuần nhuyễn, đằm thắm... Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, Phạm Duy là nhạc sĩ đi vào quần chúng trước nhất.

Nguyễn Văn Tý

Phạm Duy phát triển dân ca, đưa đến một màu sắc khác, cập nhật hóa, làm nó thoát ra khỏi thân phận cũ của nó (...) Hiện đại hóa. Gần gũi giới trẻ thành phố. Ông còn thêm cả giai điệu và lời cho dân ca. Một con người rất tài năng, thông minh.

Trịnh Công Sơn

Thời kỳ đầu thế kỷ XX, các nhạc sĩ Việt Nam đều lấy nguyên lý nhạc châu Âu nói chung, nhạc Pháp nói riêng làm cơ sở. Trong bối cảnh đó, có thể khẳng định Phạm Duy là một trong những nhạc sĩ tiên phong khởi nguồn phương thức sáng tác tân nhạc dựa trên âm hưởng dân ca Việt Nam. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bởi nó đặt nền móng cho một sắc thái dân tộc thực thụ trong khuôn diện tân nhạc dân tộc. Những tác phẩm của ông hiện vẫn còn nguyên giá trị, sống mãi cùng với lịch sử âm nhạc Việt Nam. Đáng chú ý, bên cạnh vai trò một nhạc sĩ sáng tác, Phạm Duy còn là một nhà nghiên cứu âm nhạc thực thụ. Ông viết nhạc không chỉ bằng cảm hứng sáng tạo nói chung mà hẳn còn bằng cả sự tính toán, tư duy lý tính của một nhà nghiên cứu. Có thể vì thế mà chất liệu dân gian trong các tác phẩm của ông được đánh giá là nhuần nhuyễn hòa quyện với những tinh chất chắt lọc, chứ không “thuổng” nguyên vẹn từng chuỗi giai điệu cổ nhạc như nhiều nhạc sĩ khác.

Nhà nghiên cứu âm nhạc Bùi Trọng Hiền [39]

Ca khúc đầu tay của Phạm Duy là Cô hái mơ, một ca khúc phổ từ thơ Nguyễn Bính. Tới năm 1944, ông cho ra đời bài Gươm tráng sĩ, một ca khúc gắn với sự tích hồ Hoàn Kiếm, và là ca khúc đầu tiên được ông viết cả lời lẫn nhạc.

Thời kháng chiến Nam bộ (1945–1946) ông chơi thân với Văn Cao, ngoài việc cùng ra vào chốn ăn chơi, ông và Văn Cao còn giúp nhau trong phương diện sáng tác; Ông cùng Văn Cao cũng cùng nhau làm những ca khúc như Bến xuân, Suối mơ. Thời gian đầu của sự nghiệp, ở trong vùng kháng chiến, ông sáng tác nhiều ở thể loại hùng ca: Gươm tráng sĩ, Chinh phụ ca, Thu chiến trường, Chiến sĩ vô danh, Nợ xương máu...[40] Bên cạnh đó là những bài nhạc tình lãng mạn đầu tay: Cô hái mơ, Cây đàn bỏ quên, Khối tình Trương Chi, Tình kỹ nữ, Tiếng bước trên đường khuya....

Năm 1947, Phạm Duy bắt đầu sáng tác nhạc mang âm hưởng dân ca, mà theo ông: "Tôi nghĩ rằng tôi là người Việt Nam, nếu tôi muốn được gọi là một nhạc sĩ Việt Nam, thì tôi phải làm nhạc dân ca. Đó là chuyện rất giản dị... Tôi phải khởi sự sáng tác của tôi bằng những bản nhạc mang tinh thần Việt Nam và với chất liệu của Việt Nam nữa"[41], từ đó cho ra đời thể loại mà ông gọi là "Dân ca mới",[42]: Nhớ người thương binh (1947), Dặn dò, Ru con, Mùa đông chiến sĩ, Nhớ người ra đi, Người lính bên tê, Tiếng hát sông Lô, Nương chiều... Những bài này được ông sáng tác dựa trên 2 tiêu chí:

  • Nét nhạc vẫn dùng âm giai ngũ cung cố hữu nhưng áp dụng nhạc thuật chuyển hệ làm cho giai điệu không nằm chết trong một ngũ cung nào đó như trong dân ca cổ mà chạy dài trên nhiều hệ thống ngũ cung khác nhau;
  • Lời ca tuy nằm trong thể thơ lục bát, nhưng có nhiều khi được biến thể, do đó tiết điệu cũng theo âm tiết của lời ca mà trở nên phong phú hơn.[42]

Về nội dung, nhạc Phạm Duy ở giai đoạn kháng chiến chủ yếu là những bài nhạc hùng, nhạc vui, thường mang tính chất lạc quan: Gánh lúa, Đường ra biên ải..., hay ca ngợi kháng chiến, ca ngợi công lao của Hồ Chí Minh như Bên ni bên tê, Ngọn trào quay súng, Đường về quê. Từ năm 1948, ông bắt đầu khai thác thêm đề tài về sự gian khổ của cuộc kháng chiến. Đề tài này là chủ đề chính trong những ca khúc: Bao giờ anh lấy được đồn tây (sau đổi thành Quê nghèo), Bà mẹ Gio Linh, Về miền Trung, Mười hai lời ru..., mang những câu chuyện, hình ảnh của chốn thôn quê và nỗi gian khổ của người dân quê trong thời chiến tranh[43].

Thái Thanh trình bày một đoạn bài Tình ca, một bản được xếp vào loại "Tình ca quê hương" của Phạm Duy, được sáng tác dựa trên sự phối hợp nhiều hệ thống ngũ cung khác nhau. Trích đoạn lấy từ album Tiếng hát Thái Thanh thâu âm năm 1969.

Trục trặc khi nghe tập tin âm thanh này? Xem hướng dẫn.
Trích đoạn Đường chiều lá rụng qua tiếng hát Thái Thanh, ví dụ cho loại nhạc được Phạm Duy xếp loại "siêu thực" và có tiết tấu phức tạp, khó hát, mang nhiều tính chất của nhạc cổ điển Tây phương.

Trục trặc khi nghe tập tin âm thanh này? Xem hướng dẫn.

Những bài hát này tuy được quần chúng yêu thích và phổ biến rộng rãi, nhưng do nói về sự bi, sự khổ và có chất "lãng mạn tiểu tư sản" mà Phạm Duy bắt đầu bị sự chỉ trích của cấp trên thời kháng chiến. Sau nhiều lần bị khiển trách, ông quyết định rời chiến khu về thành phố. Trong 2 năm sửa soạn về thành rồi về Sài Gòn định cư (1951–1952), ông không sáng tác gì ngoài việc phổ câu ca dao thành bài dân ca là Nụ tầm xuân, và phổ bài thơ Tiếng sáo thiên thai của Thế Lữ thành một bản tango, để đáp ứng nhu cầu hát đôi của chị em Thái Thanh, Thái Hằng.

Năm 1952, Tình hoài hương ra đời tại Sài Gòn, khởi xướng cho khuynh hướng sáng tác "Tình ca quê hương": "Sau khi nói lên vinh quang và nhọc nhằn của dân tộc với nhạc kháng chiến, bây giờ tôi đi vào tình tự quê hương.."[44] Ca khúc tiếp theo là Tình ca; hai bài này được nhân dân yêu thích và nằm trong những tác phẩm tiêu biểu nhất nói về quê hương.[44].

Phạm Duy tiếp nối thể loại "Tình ca quê hương" bằng một thể loại mà ông gọi là "Tình tự dân tộc",[44] bắt đầu từ năm 1954, với bộ ba Bà mẹ quê, Em bé quê, Vợ chồng quê, được xây dựng bằng nhạc thuật dân ca trước đây, những bài này phổ biến tại miền Nam và theo Phạm Duy: "nó được các lớp nhạc sĩ trẻ như Hoàng Thi Thơ, Lam Phương, Duy Khánh, Trần Thiện Thanh tức Nhật Trường... hưởng ứng để soạn ra những bài mà họ gọi là dân ca mambo bolero".[44]

Giai đoạn này ông vẫn tiếp tục với các bài dân ca mới: Đố ai, Nụ tầm xuân, Ngày trở về, Người về, Tình nghèo... Bên cạnh đó là Thuyền viễn xứ, Viễn du, Hẹn hò nói về sự chia lìa quê hương, chia lìa đôi lứa trong những ngày đất nước Việt Nam sắp sửa chia đôi bởi hiệp định Geneva.[45]. Ngoài ra còn có những ca khúc lấy cảm hứng từ thiên nhiên: Xuân ca, Dạ lai hương, Xuân thì...

Thời Chiến tranh Việt Nam

Nước đi là nước không về

Chia đôi dòng nước chia lìa dòng sông...

— Mở đầu ca khúc Những dòng sông chia rẽ, thuộc trường ca Mẹ Việt Nam.
"Phạm Duy bàng bạc trong đời sống âm nhạc miền Nam."

Trịnh Công Sơn[46]

"Phạm Duy là một nhà ảo thuật đại tài, khi ông chọn hình ảnh một bà mẹ, một ánh đèn, một quang gánh, một ông sao... và ông thổi vào đó những sức sống, ghi lại trong tâm tưởng người nghe về một khung trời Việt. Hơn nữa, ông làm người nghe thấy mình gần với đất Việt, hồn Việt và khiến họ yêu tất cả những điều đó như trong trái tim tài hoa của ông đang thổn thức hát lên."

Tuấn Khanh[47]

Nhạc Việt Nam là một môn học, mà trong đó nhạc Phạm Duy là một môn học nữa.

Eric Henry[23]

"Khi người ta cố giữ giọt nước mắt trong lòng hay để nó lăn dài trên má; khi người ta cười nụ nhỏ hay cất tiếng hát to; khi người ta quỵ ngã hay lúc hăng hái dấn bước trên đường; người ta đều có cho mình một câu hát của Phạm Duy."

Nguyễn Đình Toàn[48]

"Ngôi sao Bắc đẩu của âm nhạc Việt Nam, người nhạc sĩ lớn nhất của âm nhạc Việt Nam qua rất nhiều thế hệ"

Khánh Ly[4]

"Nhạc sĩ Phạm Duy là một trong những nhà thơ vĩ đại nhất của nền văn học nghệ thuật Việt Nam thời hiện đại.

Trần Dạ Từ

Từ sau Hiệp định Genève cho đến năm 1975, do hoàn cảnh chính trị, sự nghiệp của Phạm Duy chủ yếu phát triển ở miền Nam Việt Nam. Đây là giai đoạn rực rỡ, quan trọng và có ảnh hưởng lớn trong sự nghiệp của ông, với sự đi sâu vào các chủ đề tình cảm, tâm tư, bên cạnh đó là các đề tài mới mẻ cũng như những ca khúc có vấn vương tới chính trị.

Trong thời gian du học Pháp (1952–1954), ông thai nghén bản trường ca đầu tiên của mình, với ý phản đối chia đôi đất nước. Sau khi du học, ông về Việt Nam tiếp tục sáng tác, ngoài một số bài mang âm hưởng dân ca, ông tiếp tục đi sâu vào nhạc tình yêu đôi lứa, qua nhiều cung bậc hạnh phúc, đau khổ, nhớ thương: Đừng xa nhau, Ngày đó chúng mình, Tìm nhau, Thương tình ca, Kiếp nào có yêu nhau, Mưa rơi, Đường em đi, Còn gì nữa đâu...[49]. Và từ đó đi sâu hơn vào việc khai thác những trạng thái tâm tưởng, với những bài hát nói về "Tình yêu - Sự đau khổ - Cái chết", ba điều quan trọng nhất lúc đó của ông[50], những ca khúc quan trọng của giai đoạn này có thể kể đến Nước mắt rơi, Đường chiều lá rụng, Tạ ơn đời, Một bàn tay[50].

Trong thời kỳ đất nước đã chia đôi, Phạm Duy không tránh khỏi chịu ảnh hưởng từ các vấn đề chính trị. Năm 1956, ông soạn bài Chào mừng Việt Nam để ca ngợi chế độ mới, ông gọi việc làm này là vì "bổn phận công dân"[51]. Sau đó bắt đầu những tác phẩm phục vụ cho Vụ Văn hóa, như ca kịch Chim lồng (1955), nội dung ca ngợi tự do và lên án sự ràng buộc, ám chỉ sự khác nhau của hai chế độ đang tồn tại trên đất nước Việt Nam.[51]

Thời kỳ này, ngoài những khúc tình ca hay những ca khúc chính trị, ông còn tạo ra các chùm 10 ca khúc mang những chủ đề độc đáo về tâm linh - tâm tưởng như Đạo ca, Tâm ca, về xã hội như Tục ca, Vỉa hè ca, Tâm phẫn ca, về tuổi thơ như Bé ca,... Đa phần nhận được sự đón nhận của công chúng, tuy nhiên, cũng có những thể loại gây nhiều tranh cãi vì dùng ngôn ngữ quá bình dân như Vỉa hè ca hay dung tục, như "Tục ca"[52].

Năm 1963, ông khởi sự sáng tác bản trường ca Mẹ Việt Nam, đây là trường ca thứ hai sau Con đường cái quan hoàn tất trước đó vài năm. Đây được coi như hai tác phẩm lớn và thành công không chỉ trong tác phẩm của ông, mà còn trong nền âm nhạc Việt.

Năm 1973, lúc Phong trào Nhạc trẻ lên cao, ông cùng với ca sĩ Thanh Lan và nhạc sĩ Ngọc Chánh đi dự Đại hội âm nhạc Quốc tế tại Tokyo, Nhật. Bản Tuổi biết buồn của ông được lọt vào vòng chung kết. Thập niên 1970 với sự tham gia văn nghệ của các con Duy Quang, Thái Hiền, ông có thêm những tình ca nhẹ nhàng lãng mạn thích hợp với tuổi thanh niên, sinh viên như Trả lại em yêu, Con đường tình ta đi, Thà như giọt mưa.... Ngoài việc tự sáng tác nhạc và lời, ông cũng không quên phổ thơ người khác thành những tác phẩm được đông đảo người yêu mến, như những bài Ngày xưa Hoàng thị, Đưa em tìm động hoa vàng, tập nhạc "Đạo ca" (phổ thơ Phạm Thiên Thư), Thà như giọt mưa, cô Bắc kỳ nho nhỏ, Em hiền như Ma-soeur (phổ thơ Nguyễn Tất Nhiên), Tiễn em, Mùa thu Paris (phổ thơ Cung Trầm Tưởng)...Và bên cạnh đó, ông còn đặt lời Việt cho những ca khúc nước ngoài, đó là những bài nhạc mới của "phong trào nhạc trẻ", hay những bản nhạc xưa hơn, và cả nhạc bán cổ điển. Nhiều ca khúc do ông đặt lời được coi là thành công như Dạ khúc (Stanchen của Schubert), Mơ mòng (Dreaming của Schumann), Khi xưa ta bé (Bangbang)...

Một thể loại cũng mang lại thành công cho ông trong giai đoạn chiến tranh nước Việt, đó là những ca khúc nói về tâm tư của người dân, người lính trong cuộc chiến tranh Việt Nam như Kỷ vật cho em, Khi tôi về, Tình khúc trên chiến trường tồi tệ, những ca khúc mang tính phản chiến như Giọt mưa trên lá, Chuyện hai người lính, Thầm gọi tên nhau, Tưởng như còn người yêu. Ông cũng tham gia Phong trào du ca Việt Nam với nhiều ca khúc nổi bật như Việt Nam Việt Nam, Trả lại tôi tuổi trẻ, Du ca mùa xuân, và xuất bản với phong trào này tập nhạc Hoan ca bao gồm các thể loại: Bình ca, Nữ ca, Đồng dao. Phạm Duy cũng là người ủng hộ và tham gia phong trào nhạc trẻ, khởi đầu với việc soạn lời Việt cho các ca khúc tiếng ngoại quốc.

Thời kỳ ở hải ngoại

Năm 1975, ông Nguyễn Đắc Xuân là người từng được Trưởng ban văn hóa văn nghệ Tố Hữu giao vào Sài Gòn để mời ông Phạm Duy ở lại sáng tác, nhưng nhạc sỹ đã rời đi trước khi ông Xuân tới nơi[53].

Phạm Duy rời Việt Nam vào ngày 27 tháng 4 năm 1975 bằng cách ra biển theo tàu hải quân Mỹ. Trong 30 năm xa quê hương, sự nghiệp âm nhạc của ông vẫn tiếp tục phát triển qua nhiều đề tài, thể loại mới, tuy rằng lúc này nhạc của ông bị cấm ở Việt Nam, chỉ phổ biến trong cộng đồng ở hải ngoại. Giai đoạn đầu, có một thời gian ông cùng các con và ca sĩ Khánh Ly đi hát tại các trại tam cư cho người Việt lưu vong[54][55]. Ông cũng cho in sang các băng nhạc, soạn sách dạy nhạc để kiếm tiền. Sau khi đủ vốn liếng và tự tin, ông rủ Steve Addiss, Bill Crofut, James Durst...đi hát rong tại các quán cà phê, trường Đại học, câu lạc bộ ở các thành phố Mỹ [55]. Sau đó ông thành lập gánh hát Gia đình Phạm Duy (The Pham Duy family singers), bắt đầu mở các chương trình ca nhạc cũng như nhận lời mời đi diễn tại các sự kiện âm nhạc.[55]

Phạm Duy cũng bắt đầu giai đoạn sáng tác mới của mình từ những ngày đầu ở Mỹ. Tác phẩm gần như xuyên suốt thời kỳ này, là tổ khúc Bầy chim bỏ xứ, thai nghén từ năm 1975 và hoàn tất năm 1990, gồm 18 khúc nhạc dài ngắn, ẩn dụ về hình ảnh của những người Việt phải rời bỏ đất nước và hy vọng vào tương lai đoàn tụ, qua hành trình ra đi và trở về của đàn chim[56]. Khi trả lời phỏng vấn về vấn đề tỵ nạn Đông Dương, ông nói: "Tôi sinh ra để hát về nước tôi! Nước tôi đâu rồi?"[54].

Những sáng tác của Phạm Duy trong thời kỳ đầu ở hải ngoại có thể chia làm hai đề tài chính:

  • Nói về hành trình lưu vong ở hải ngoại của người Việt, với Tỵ nạn ca. Gồm những ca khúc viết về tình cảnh, tâm trạng của người Việt lưu vong: Nguyên vẹn hình hài, Ta trốn Cộng hay ta chống Cộng, Có phải tôi là người quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh, Hát trên đường tạm dung, Người Việt cao quý, Ta là gió muôn phương, Dấu chân trên tuyết, Quê hương còn đó,... đề tài Thuyền nhân: Hát Trên Đường Vượt biển, tâm tư nguyện vọng của người xa xứ: Lấp biển vá trời,Ở Bên Nhà Em Không Còn Đứng Đợi chờ Anh, Lời Người Thiếu Phụ Việt Nam, Giải Thoát Cho Em, Trả Lại Chồng Tôi, Như là lòng tôi,...[57]
  • Về sự mất tự do ở trong nước, với Ngục ca, phổ từ tập thơ Hoa địa ngục của Nguyễn Chí Thiện: Hát Cho Người Ở Lại, Giấc Mơ Khủng Khiếp, Hoa Địa Ngục, Từ Vượn Lên Người Từ Người Xuống Vượn, Đảng Đầy Tôi, Ngày 19 Tháng 5, Xưa Lý Bạch, Những Thiếu Nhi Điển Hình Chế Độ... có nội dung đả kích, lên án mạnh mẽ chính phủ nước Việt Nam.[57]

Năm 1982, theo lời kể của ông, "đã có một sự kiện làm cho tâm hồn tôi lắng xuống" và khiến ông dừng sáng tác các bài hát đả kích nhà nước Việt Nam[58] Đó là việc được đọc tập thơ chuyền tay của thi sĩ Hoàng Cầm từ Việt Nam. Từ đó ông cho ra đời Hoàng Cầm ca gồm những bài phổ từ thơ Hoàng Cầm.[58] Hoàng Cầm ca cũng nhen nhóm một giai đoạn mới trong nhạc của ông ở hải ngoại, đó là việc ông từ bỏ dần những ca khúc mang tính chất đau thương viễn xứ hay đả kích chế độ chính trị tại Việt Nam, chuyển sang sáng tác những bản tình ca.

Đến năm 1988, việc chiến tranh lạnh kết thúc và "vì cuộc di cư của người Việt Nam đã tới một giai đoạn mới"[59], Phạm Duy bèn tính tới việc sáng tác nhạc cho năm 2000, "Chọn đề tài này, tôi không còn chạy theo cái nhất thời mà đi tìm cái vĩnh cửu. Dù rằng trước đây những xu hướng trở về nội tâm cũng đã ló ra trong những bài hát soạn cho ngoại vật. Từ nay trở đi, đối với tôi, có lẽ tôi phải bỏ quên các loại nhạc tình cảm và nhạc xã hội để đi tới nhạc tâm linh"[59]. Thời kỳ này có các tác phẩm chính: Trường ca Hàn Mặc Tử (cuối năm 1993), là loại "nhạc siêu thực" phổ từ những bài thơ của Hàn Mặc Tử. Thiền ca, với phụ đề Hát Trên Đường Về ra đời để "hi vọng mọi người Việt Nam trở về với ba đạo gốc". Và Rong ca, gồm 10 bài: Là cuộc "thong dong đi trên con đường dẫn tới những năm 2000"[57], với những tâm sự của người tình già (Người tình già trên đầu non), với ý nguyện hóa giải quá khứ (Ngụ ngôn mùa xuân), chôn chặt quá khứ trong Mộ phần thế kỷ, hứa hẹn trở về trong Hẹn em năm 2000, đặt những vấn đề cho thế kỷ mới (Mẹ năm 2000), và cái nhìn lạc quan hơn vào đời sống: Nắng chiều rực rỡ[59]. Theo Phạm Duy, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn chính là người giúp ông phổ biến Rong ca tại Việt Nam, qua một băng cassette xách tay.[59]

Ngoài những đề tài chính trên, Phạm Duy cũng không quên soạn những bản nhạc về tình yêu đôi lứa như Nghìn năm vẫn chưa quên, Rồi đây anh sẽ đưa em về nhà... Ông cũng bắt đầu soạn Hương ca và Minh họa Kiều, những tác phẩm sẽ được hoàn thành sau khi ông trở về Việt Nam.[60]

Cũng trong năm 1988, ông cùng con trai Phạm Duy Cường thành lập PDC MUSICAL PRODUCTIONS, trở thành người đầu tiên đưa nhạc Việt vào đĩa Compact Disc.

Trở về Việt Nam định cư tới cuối đời

Việt Nam, hai tiếng nói sau cùng khi lìa đời!
— Lời ca khúc Việt Nam Việt Nam.
Nhạc sĩ Phạm Duy đang biểu diễn tại một quán nước

Sau nhiều lần về thăm quê hương,[61]. Phạm Duy chính thức trở về định cư tại Việt Nam ngày 17 tháng 5 năm 2005, với sự cho phép của chính phủ Việt Nam[62]. Sự kiện này được truyền thông trong nước lẫn hải ngoại quan tâm đặc biệt[62][63][64]. Báo chí Việt Nam nhận xét đó là "nhịp cầu nối quê hương với người Việt xa xứ"[62], "niềm vui thống nhất lòng người"[63], còn Phạm Duy nói cuộc trở về này là "lá rụng về cội"[65][66]. Bên cạnh đó, sự kiện này còn gặp phải sự phản đối của một số người Việt hải ngoại, vì họ cho rằng ông đã "về phe cộng sản".

Ông Nguyễn Đắc Xuân từng chất vấn Phạm Duy về những quyết định của ông trong quá khứ. Hồi năm 1996, hàng đêm ông Xuân liên hệ qua điện thoại thì có lần ông đã hỏi là "Anh Phạm Duy có khi nào anh nghĩ rằng anh có tội với đất nước không?". Phạm Duy trả lời[53]:

Có chứ, mình cũng có chứ nhưng do hoàn cảnh. Mình biết chứ và bây giờ mình cũng phải làm cái gì đó để bù đắp lại cái tội đó của mình. Đứng trên thế của người Kháng chiến mình là có tội.

Phạm Duy cảm thấy khủng khiếp khi nhìn vào thực tế của những nhạc sĩ hải ngoại khác như Phạm Đình Chương, Duy Khánh, Hoàng Thi Thơ: Cho đến khi họ chết người ta cũng đọc điếu văn đầy hận thù, do đó ông thấy cần phải về Việt Nam. Phạm Duy cũng chia sẻ rằng nhạc sĩ ở Việt Nam "sướng hơn ở Mỹ"[53].

Công ty cổ phần Văn hoá Phương Nam và Hãng phim Phương Nam cũng nhân dịp này, đã đứng ra mua bản quyền toàn bộ nhạc phẩm của Phạm Duy trong vòng 10 năm với giá hơn 400 nghìn đôla [67].

Năm 2006, Phạm Duy tổ chức đêm nhạc mang tên "Ngày trở về" tại nhà hát Thành phố Hồ Chí Minh, đêm nhạc tổ chức quy mô hoành tráng, được công chúng đón nhận nhiệt liệt. Một số nhân vật đã phản đối sự đón nhận này, trong đó có nhà báo Nguyễn Lưu với bài "Không thể tung hô" đăng trên báo Đầu tư. Tuy nhiên bài viết của Nguyễn Lưu vấp phải sự phản đối của nhiều độc giả[68], bị cho là mắc nhiều "sai lầm ngây ngô", và những "lỗ hổng kiến thức chết người"[69]. Hãng phim Phương Nam cũng phản hồi bài viết này bằng một bài báo, trong đó nội dung phần lớn để cải chính những kiến thức sai lầm trong bài của Nguyễn Lưu.[70]. Sau đó báo Đầu tư đã thông báo chấm dứt tranh luận về vấn đề này.

Nhiều đêm nhạc Phạm Duy khác với quy mô lớn tiếp tục diễn ra: Con đường tình ta đi (ngày 12 tháng 11 năm 2009), Mơ giấc mộng dài (tháng 7 năm 2010) tại nhà hát Hoà Bình tổ chức bởi Hãng phim Phương Nam, những đêm giới thiệu Minh họa Kiều tại miền Bắc.. Tháng 3 năm 2009, đêm "Ngày trở về" đã tổ chức thành công ở nhà hát lớn, Hà Nội, nơi ông sinh ra, "Xong buổi diễn, tôi mới thực sự là người về hưu" - ông phát biểu [71].

Ngày 18 tháng 8 năm 2011 ban liên lạc họ Phạm tại Tp Hồ Chí Minh và công ty TNHH họ Phạm Phương Nam tổ chức đêm nhạc Họ Phạm với chủ đề: "Mọi trái tim - một tấm lòng" cũng mời ông và nhạc sĩ Phạm Tuyên tới dự.

Năm 2013, ông qua đời tại TP Hồ Chí Minh.

Đạo diễn điện ảnh, nhà phê bình phim

Năm 1956, xảy ra vụ ngoại tình giữa ông và ca sĩ Khánh Ngọc là vợ của em vợ ông là nhạc sĩ Phạm Đình Chương, vụ việc trở thành một đề tài gây xôn xao trên các báo chí Sài Gòn và cả Hà Nội. Đây là "mối tình cấm", "cả gan" luôn làm ông "buồn rầu khi phải nhắc lại" vì đã làm buồn lòng người vợ, người em vợ, và vì biết rằng những đổ vỡ kia không thể hàn gắn được". Trong cuốn Hồi ký Phạm Duy (tập 3), ông viết: “Sự buông thả không kiềm chế trong sáng tác cũng như trong đời sống hằng ngày đẩy tôi vào một cuộc tình đáng lẽ tôi nên tránh. Thành thực mà nói, tôi muốn tránh cũng không được. Vì nhu cầu của công tác điện ảnh, tôi sống quá gần gũi với người vợ của em vợ, đôi khi còn phải sống chung ở Hồng Kông hay Manila để hoàn tất cuốn phim”.

Sau vụ tai tiếng tình ái nói trên và bị chỉ trích nặng nề, Phạm Duy dừng hợp tác với ban nhạc hợp ca Thăng Long và chuyển sang làm việc ở Trung tâm điện ảnh. Phạm Duy làm đạo diễn bộ phim Hai người mẹ theo lời mời của ông Đỗ Bá Thế - Giám đốc Đông Phương films. Đến nay không ai biết bộ phim Hai người mẹ thành công đến đâu và Phạm Duy có tiếp tục đạo diễn bộ phim nào nữa không.

Ngoài ra, ông còn là cây bút phê bình điện ảnh. Sau vài năm du học ở Pháp và xem nhiều bộ phim xuất sắc của điện ảnh thế giới ở Trung tâm văn hóa Pháp tại Sài Gòn, Phạm Duy lựa chọn hầu hết những tác phẩm lớn đã ra đời trước đó nhiều năm để viết bài bình như Kẻ cắp xe đạp (đạo diễn Vittorio De Sica), Công dân Kane, Xô nhau đi tìm vàng (Charlie Chaplin), Bác sĩ Caligari (đạo diễn Robert Wiene), Ảo mộng lớn (đạo diễn Jean Renoir)...[72]

Kiểm duyệt nhân thân, tác phẩm

Sự cấm đoán nhạc Phạm Duy trong 30 năm, một sự nghiệp làm gạch nối liên tục suốt từ những năm đầu của Tân nhạc cho đến bây giờ, do đó, là một vết thương trầm trọng của tân nhạc Việt Nam.

Phạm Quang Tuấn[73]

Tất cả về cội, không mất mát gì ư? Có chứ, Mất Phạm Duy! Chúng ta tiếc lắm, vì anh có tài lớn. Nhưng chúng ta làm sao được! Anh ấy bỏ chúng ta, chứ chúng ta đâu có bỏ anh.

Chế Lan Viên

Mặc dầu rất khó tiên đoán về thời tương lai, nhưng có điều chắc chắn là một ngày nào đó pho Hồi ký và sự nghiệp âm nhạc của Phạm Duy sẽ được theo chân Truyện Kiều mà vào trường học của thế hệ trẻ Việt Nam. Một dân tộc không thể phủ nhận bản sắc của nó mãi được.

Eric Henry[74]

Nhạc Phạm Duy từng phổ biến rộng rãi khắp đất nước Việt Nam từ năm 1942–1954 và được sự đón nhận lớn của quần chúng và cả chính quyền Việt Nam. Nhưng từ khi ông tỏ ra bất phục với chính quyền cách mạng và rời bỏ cuộc kháng chiến chống Pháp, đã có nhiều nhìn nhận khắt khe về ông dẫn đến việc cấm hát, cấm nói về Phạm Duy – nhạc Phạm Duy từ sau năm 1954 tại miền Bắc, và việc ông vượt biên sang Mỹ đã khiến Nhà nước Việt Nam đưa ông vào danh sách hai người bị cấm toàn bộ về nhân thân trên toàn nước Việt Nam từ sau 1975. Vào ngày 17 tháng 4 năm 1975, một bản tin trên đài phát thanh giải phóng tuyên bố "tử hình vắng mặt" ba người trong đó có Phạm Duy[34]

Tại miền Bắc Việt Nam trước 1975

Theo hồi ký của Phạm Duy thì lệnh cấm nhạc của ông bắt đầu từ bài Bên cầu biên giới, ra đời năm 1947; bài này bị chỉ trích là có thứ tình cảm ủy mị buồn bã, làm nản lòng chiến sĩ. Sau khi được Nguyễn Xuân Khoát thông báo lệnh cấm, Phạm Duy rời bỏ cách mạng về miền Nam.

Ban đầu tại các diễn đàn văn nghệ còn có những cuộc bàn cãi về việc cho hay không cho hát nhạc Phạm Duy, nhưng sau khi Phạm Duy rời bỏ kháng chiến khu (tức là đào ngũ) thì dứt khoát cấm hoàn toàn. Từ đó, nhạc Phạm Duy bị liệt vào danh sách cấm, tên tuổi của ông bị đem ra phê phán. Ông cũng bị nghi ngờ có liên hệ với tình báo Mỹ (CIA)

Nhạc sĩ Đỗ Nhuận là người hưởng ứng nhiệt tình việc này, ông đặc biệt tỏ ra coi thường âm nhạc của Phạm Duy. Trong các bài viết năm 1958 và 1969, Đỗ Nhuận gọi việc sinh viên miền Bắc phổ biến bài Tìm nhau của Phạm Duy là "rải tuyên truyền", Đỗ Nhuận gọi bài hát đó là "dâm ô"[75].

Tại Việt Nam từ 1975 đến 2005

Sau ngày thống nhất đất nước, Trần Văn Khê từ Pháp có về hỏi Tố Hữu về vụ Phạm Duy, Tố Hữu nói: "Bỏ khúc giữa, lấy khúc đầu và khúc đuôi"[76], nghĩa là vẫn nên phổ biến nhạc Phạm Duy sau khi bỏ hết những bài sáng tác thời chiến tranh Việt Nam. Nhưng rồi nhạc nhạc Phạm Duy vẫn bị cấm trên cả nước, bàn luận về tác phẩm của Phạm Duy cũng bị cấm. Ông cùng với Hoàng Thi Thơ là hai nhạc sĩ đặc biệt nhất bị cấm về nhân thân.[77]

Tuy vậy, khoảng 30 năm, vẫn thấy vài người viết về Phạm Duy. Trong cuốn Những bài viết tiến bộ công khai trên báo chí Sài Gòn từ 1954 – 1975 có cho đăng lại một phần trích đoạn của cuốn Phạm Duy đă chết như thế nào. Hay như thi sĩ Chế Lan Viên cũng nhắc tới Phạm Duy trong một bài báo tên "Hồi Ký" đăng tại tạp chí Sông Hương ngày 22 tháng 6 năm 1986:

"Tất cả về cội, không mất mát gì ư? Có chứ, Mất Phạm Duy! Chúng ta tiếc lắm, vì anh có tài lớn. Nhưng chúng ta làm sao được! Anh ấy bỏ chúng ta, chứ chúng ta đâu có bỏ anh."

Bài viết của Chế Lan Viên kết thúc bằng đoạn:

"Vâng chỉ có trường hợp anh Phạm Duy là…là không cần cội vậy thôi. Chứ hình như hầu hết, lá rụng đều về cội cả và mọc lên thành cội nữa."

Nhà báo Nguyễn Phúc Long trong bài "Công và tội" đăng trên báo Đoàn kết, số 393 ra tháng 7 năm 1987, có nhắc đến Phạm Duy, sau một loạt tên tuổi mà ông cho là "phản bội", nhưng vẫn có công cho văn hoá nước nhà như Trần Ích Tắc, Lê Trắc, Phạm Thái, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Duy Khiêm, Võ Phiến và nhóm Tự Lực Văn Đoàn:

"Trong lĩnh vực ca nhạc, Phạm Duy, "con người của phản bội", bị nhân dân ta khinh bỉ cũng đă có cái may mắn là để lại cho chúng ta một số bài hát giàu tính dân ca và trữ tình nhất là những bài được ông ta sáng tác trong thời kỳ đi theo kháng chiến1946 - 1949."

Đến năm 1994, báo chí Việt Nam mới có một bài thiện ý với Phạm Duy. Đó là bài thơ "Về thôi" mà nhà văn Lưu Trọng Văn, con trai nhà thơ Lưu Trọng Lư, gửi lên tờ Tuổi trẻ chủ nhật, có đề chữ "Tặng P.D." bên cạnh. Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý đă phổ nhạc bài này. Rồi sau đó chính Phạm Duy cũng phổ nhạc với tên "Trăm năm bến cũ". Theo Phạm Duy, đây là bài thơ làm ông nghĩ nhiều tới việc về thăm Việt Nam, mà năm 2001 ông đă thực hiện.

Trong khoảng thời gian nhạc Phạm Duy bị cấm này vẫn có những ca sĩ trình diễn nhạc Phạm Duy và thậm chí cho ra bản thu âm, trong đó nổi bật nhất có thể kể đến Lê Dung, người được coi là diva lớn nhất trong nước. Lê Dung đã cho thu âm một số bài hát của Phạm Duy như Nghìn trùng xa cách, Mộ khúc... và bà đã cho phát hành trong các album Kỷ niệm vàng son, Dạ khúc của bà. Điều này đã khiến bà gặp rắc rối không ít với chính quyền.

Sau 2005

Từ sau 2005, Phạm Duy trở về Việt Nam và các nhạc phẩm của ông được phổ biến lại dần từng đợt một dưới hình thức cấp phép lưu hành. Tính cho tới khi ông mất, chỉ khoảng 100 ca khúc, tức 1/10 lượng sáng tác được nhà nước cho phép phổ biến, điều này khiến những người yêu nhạc của ông cảm thấy tiếc nuối[78] cho một nghệ sĩ tài năng nhưng liên đới nhiều đến chính trị. Ông từng đích thân gửi thư cho chủ tịch Trương Tấn Sang sau khi gặp vợ chồng chủ tịch nước ở Hà Nội trong chương trình 'Xuân Quê Hương', với nội dung mong muốn ""tất cả các tác phẩm âm nhạc [của Phạm Duy]...từ thời tiền Kháng chiến... đến nay được cho phép biểu diễn trên quê hương" trừ các tác phẩm "Chính quyền thấy không phù hợp"[78]. Phổ biến nhạc Phạm Duy cũng là điều được nhiều nhân vật ở nhiều giới lên tiếng ủng hộ, trong đó có sử gia Dương Trung Quốc, ca sĩ Ánh Tuyết, nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân, giáo sư tiến sĩ âm nhạc Trần Văn Khê[78].

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Phạm_Duy http://www.bbc.com/vietnamese/mobile/vietnam/2013/... http://www.bbc.com/vietnamese/vietnam/2013/01/1301... http://biennho.com/home/modules.php?op=modload&nam... http://to-hai.blogspot.com/2013/01/nhat-ky-mo-lai-... http://www.dactrung.com/Bai-bv-1418-Nguyen_dinh_To... http://www.dactrung.com/Bai-bv-1544-NuA_THe_Ky_PHa... http://www.dactrung.com/Bai-bv-2725-Pham_Duy_va_Ba... http://www.dactrung.com/NoiDung.aspx?m=bv&id=2231 http://www.gio-o.com/NguyenDucSonLLLan.htm http://www.nguoi-viet.com/giai-tri/Nghe-si-hai-ngo...